• Đột biến gen đồng hợp tử MTHFR được điều trị bằng 5-MTHF. Những gì bạn tiếp tục theo dõi dưới đây là những trường hợp điển hình của việc “Điều trị đột biến gen đồng hợp tử với 5-MTHF”. Tài liệu được hoàn thành, xuất bản trên tạp trí Springer ( tạp trí y khoa nổi tiếng trên thế giới ) vào 07 tháng 06 năm 2018.

Danh sách các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu:

Edouard J. Servy. Laetitia Jacquesson-Fournols. Marc Cohen. Yves J. R. Menezo ( Bạn có thể tìm kiếm các công trình nghiên cứu qua tên của các nhà khoa học )


Nội dung nghiên cứu.

  • Đánh giá khả năng sửa chữa các khiếm khuyết về trao đổi chất trong giao tử và phôi do enzyme MTHFR ( Methylenetetrahydrofolate Reductase) bằng cách bổ sung 5-MTHF thay vì axit folic tổng hợp như cách làm của những nằm trước đó.

 

 

Tóm tắt: Điều trị đột biến gen đồng hợp tử với 5-MTHF bằng video

 

Tóm tắt tình trạng các cặp vợ chồng.

  • Trước khi đưa vào nghiên cứu. Những cặp vợ chồng này được cho sử dụng axit folic liều cao dẫn đến hội chứng UMFA (axit folic không chuyển hóa).
  • Ba mươi cặp vợ chồng có vấn đề sinh sản kéo dài ít nhất 4 năm. Các vấn đề các cặp vợ chồng gặp phải bao gồm: Sảy thai lặp lại, suy buồng trứng sớm, hoặc các thông số tinh trùng bất thường. Với hai phần ba trong số họ đã thất bại trong công nghệ hỗ trợ sinh sản gọi tắt là ART trong đó bao gồm cả (IVF, IUI…).
  • Đối với tất cả các cặp vợ chồng. Ít nhất một trong số các cặp này bị dạng “Đột biến dị hợp tử” tức là bị cả đột biến C677T và A1298C. Để rõ hiểu rõ hơn về hai loại gen đột biến này mời bạn đọc bài viết Đột biến gen C677T-A1298C có ý nghĩa gì“.

 

[/fusion_text]

Ảnh: Danh sách các cặp vợ chồng tham gia nghiên cứu “Đột biến gen đồng hợp tử MTHFR”

Tóm tắt tình trạng sử dụng thuốc trước nghiên cứu

  • Hầu hết phụ nữ trước đây đã được điều trị không thành công bằng axit folic liều cao (5 mg / ngày).
  • Theo những gì hiện đang được đề xuất trong các tài liệu. Các cặp vợ chồng mang một trong những đột biến đồng hợp tử đã được điều trị trong 4 tháng với 5-MTHF.
  • Liều được chỉ định là 600-800 microgam/ngày. Trước khi thử thụ thai tự nhiên hoặc bắt đầu một nỗ lực khác với phương pháp hỗ trợ sinh sản IVF, IUI…Các cặp vợ chồng được cho sử dụng trước từ 1-3 tháng

 

Tóm tắt kết quả đột biến gen đồng hợp tử MTHFR

  • Trong 33 cặp vợ chồng tham gia điều trị. Có 1 cặp không được theo dõi (Vì sự từ chối đến từ bản thân bệnh nhân) và 2 cặp khác hiện vẫn đang trong quá điều trị. Không quan sát thấy bất kì tác dụng phụ nào.
  • Mười ba cặp thụ thai tự nhiên. Phần còn lại cần hỗ trợ ART (Bao gồm IVF, IUI) để có thai.
  • Cho đến nay chỉ có ba cặp vợ chồng không thành công. Tỷ lệ thành cộng đạt 90%. Đây là tỷ lệ cao trong y học.

 

Tóm tắt kết luận của các nhà khoa học

  • Việc sử dụng liều lượng lớn axit folic (5 mg/ngày) đã không còn được áp dụng nữa. Liều axit folic thông thường (100-200 μg) có thể được phép dùng cho những cặp đôi không bị đột biến gen MTHFR. Nhưng các cặp này đã từ bỏ khi có đột biến gen MTHFR ( đột biến MTHFR làm cho nền tảng sinh hóa/di truyền của bệnh nhân không có khả năng cung cấp 5-MTHF). Tức là những cặp như vậy sẽ gặp vấn đền chuyển hóa của axit folic thành 5-MTHF.

 

Để tìm hiểu cụ thể quá trình này bạn tìm hiểu 5-MTHF là gì

 

Ảnh: Chu trình của folic vào cơ thể

  • Liều 5-MTHF (800 μg) về mặt sinh lý vượt qua khối chặn MTHFR và được đề nghị là phương pháp điều trị hiệu quả cho những cặp vợ chồng này.
  • Hơn nữa, nó tránh được các tác dụng phụ tiềm ẩn của hội chứng UMFA (Không chuyển hóa acid folic). Được nghi ngờ là gây ra rối loạn chức năng miễn dịch và các tác dụng bệnh lý khác như ung thư (đặc biệt là đại trực tràng và tuyến tiền liệt).

Đọc bài nghiên cứu Axit folic những nguy cơ khi sử dụng để hiểu rõ hơn vấn đề này.

  • Ở phần tiếp theo là nội dung của nghiên cứu. Sẽ có những thuật ngữ chuyên ngành về y khoa rất khó hiểu. Để giải đáp thắc mắc bạn có thể comment phía dưới hoặc liên hệ qua Hotline: 0969. 741. 866 để được tư vấn cụ thể.

Nghiên cứu đồng hợp tử MTHFR

Quá trình Methyl hóa

  • Quá trình Methyl hóa là một quá trình cơ bản trong sinh lý tế bào. Các nhóm Methyl tạo liên kết cộng hóa trị vào các Lipid, Protein và ADN.
  • Quá trình methyl hóa là bắt buộc đối với: Sửa chữa ADN tế bào, chức năng dẫn truyền thần kinh và vận chuyển màng tế bào. Trong lĩnh vực sinh sản, quá trình methyl hóa ADN và Histone không những có liên quan đến biểu sinh, dấu ấn gen mà còn bất hoạt gen và nhiễm sắc thể.
  • Hầu hết các thẻ methyl DNA biến mất trong quá trình phát triển phôi sớm và sau đó được phục hồi trong cuộc sống tiền sản ở nam giới và trong quá trình phát triển nang trứng sau khi sinh ở nữ giới. Các Enzym Transferase Methyl DNA (DMTs) thiết lập lại các dấu methyl trong quá trình tạo gen và sinh tinh.
  • Nguyên liệu cần thiết cho quá trình Methyl hóa là SAM (S adenosyl Homocysteine). Một khi phân tử mục tiêu được methyl hóa, SAH (S adenosyl homocysteine) và sau đó là Homocysteine (Hcy) được hình thành.

Homocysteine

  • Homocysteine là một hợp chất độc hại: Nó có thể làm hỏng các mạch máu, gây viêm và ảnh hưởng đến sự giải độc của gan. Hơn nữa, nó ức chế quá trình methyl hóa thông qua cơ chế điều hòa ngược. Nó phải được tái tạo thành methionine thông qua một chu trình carbon (1-CC). Hiệu quả của 1-CC phụ thuộc rất nhiều vào chu trình axit folic và đặc biệt là 5-MTHF là nguồn cơ chất cho nhóm methyl.

Tôi đã có một bài viết phân tích giữa việc nồng độ Homocysteine cao trong máu và liên quan đến sảy thai liên tiếp“. Nhằm giúp bạn hiểu rõ hơn tại sao mình bị sảy thai và yếu tố nào ảnh hưởng đến việc sảy thai nhiều nhất.

  • Để hoạt động trao đổi chất, axit folic tổng hợp phải được chuyển đổi đầu tiên qua THF và sau đó đến 5-MTHF: MTHFR là một chìa khóa trong quá trình này. Ngoài ra, nó còn điều chỉnh sự cân bằng giữa các Folate để tổng hợp nucleotide và methionine. Sự hỗ trợ cho chu trình 1-CC đã được chứng minh là có hiệu quả cho cả giao tử đực và cái.

Đồng dạng MTHFR

  • Các đồng dạng MTHFR là các biến thể di truyền nổi tiếng làm giảm hiệu quả hình thành 5-MTHF và cuối cùng là quá trình methyl hóa. Gen của enzyme MTHFR nằm trên nhiễm sắc thể 1 và mặc dù đã xác định được 35 đột biến khác nhau, dạng đột biến phổ biến nhất là C677T A1298C. Chúng cũng được coi là nguy hiểm vì khả năng tạo 5-MTHF có thể giảm từ 17 đến 75% với các đột biến này. Đột biến dị hợp tử cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của gen.
  • Hiện nay đã có bằng chứng mạnh mẽ chỉ ra rằng các đồng dạng MTHFR. Đặc biệt là T677T gây bất lợi cho khả năng sinh sản ở phụ nữ và nam giới. Đàn ông mang đa hình đơn nucleotide MTHFR (Single Nucleotide Polymorphism – SNP) làm tăng nguy cơ sảy thai tái phát (Repeat Miscarriges – RM) ở các cặp vợ chồng. Đồng dạng T677T làm thay đổi nghiêm trọng sự phát triển trước khi cấy ghép, gây ra bất thường nhiễm sắc thể.

Nằm trọng loạt nghiên cứu #. Các nhà khoa học có 1 CASE khá điển hình về Đột biến gen đồng hợp tử ở dạng T677T

Sử dụng quá nhiều axit folic

  • Đối với những bệnh nhân mang đột biến, việc sử dụng quá nhiều axit folic có thể dẫn đến hội chứng UMFA gây hậu quả nghiêm trọng. Nó có thể gây ra rối loạn chức năng miễn dịch và do đó làm bùng phát quá trình khối u hoạt động. UMFA được tạo ra bởi axit folic tổng hợp với liều cao có thể ảnh hưởng đến sự gắn kết của methyl acetate, do thực phẩm mang đến các thụ thể tiếp nhận và vận chuyển folate dẫn đến tình trạng MTHFR giả.

Folate & Axit folic ngay cả các chuyên gia cũng dễ nhầm lẫn giữa khái niệm này. “Folate là gì. Sự khác nhau giữa folate và axit folic” là bài viết mà bạn cần tham khảo trước khi bắt đầu sử dụng các sản phẩm 5-MTHF.

  • 5-MTHF hỗ trợ folate trong huyết tương tích cực hơn axit folic nói chung và các chất mang MTHFR SNP. Một điều trị thử nghiệm với 5-MTHF đã được bắt đầu ở những cặp vợ chồng bị suy thai tái phát, suy buồng trứng sớm hoặc có tiền sử vô sinh lâu dài. Trong ít nhất 4 tháng trước khi cho phép họ thử thụ thai tự nhiên hoặc bắt đầu điều trị ARV mới.

MTHFR 677CT và A1298C

  • Sau nghiên cứu về tác động của các dạng đồng phân MTHFR 677CTMTHFR A1298C đối với giao tử đực và cái. Năm 2016 chúng tôi quyết định nghiên cứu các bệnh nhân có nhiễm sắc thể bình thường và có tiền sử dài (ít nhất 4 năm) bị sẩy thai lặp lại hoặc vô sinh.
  • Các người vợ đã được kiểm tra phụ khoa hoàn chỉnh bao gồm: Nội soi bàng quang và siêu âm. Để tránh mọi tác dụng phụ liên quan đến đường sinh dục ( về giải phẫu, nhiễm trùng) hoặc bệnh lý buồng trứng, FSH đã được thử nghiệm trên pha D3 của chu kỳ và phải dưới 9IU / mL.
  • Antiphospholipids và kháng nguyên Nuclear cũng được kiểm soát. Tất cả những người đàn ông đều được kiểm tra phân mảnh DNA (SDF) và giải mã Nuclear bằng phương pháp tế bào học SCSAR. Tất cả đều ở dưới ngưỡng tới 25% cho 2 tham số.

Xét nghiệm di truyền

  • Xét nghiệm di truyền: Sự hiện diện của các đồng dạng MTHFR được xác định bằng cách sử dụng mẫu máu tĩnh mạch. Phân tích DNA được thực hiện bằng cách khuếch đại PCR. Sau đó là phân tích hạn chế. Độ nhạy chẩn đoán là > 99% cho cả hai dạng đồng phân.
  • Trong tất cả các cặp vợ chồng có ít nhất một là đồng hợp tử (HMZ) hoặc khi cả 2 đều là dị hợp tử (HTZ). Phương pháp điều trị bằng 5-MTHF được bắt đầu và duy trì ít nhất 3 tháng trước khi chuyển sang điều trị ARV (nếu cần chỉ định ARV)
  • Tuổi trung bình của phụ nữ tham gia chương trình là 34 tuổi. Hai trong số các cặp vợ chồng, trước khi tham khảo ý kiến của chúng tôi, đã được tư vấn cho việc hiến tế bào trứng.

Sử dụng 5-MTHF

  • Liều hàng ngày cho 5-MTHF là 800 microgam / ngày. Theo nhu cầu axit folic ở phụ nữ khỏe mạnh. Chỉ các thành viên có kiểu Gen WT trong các cặp đôi là không được điều trị
  • Quan hệ tình dục an toàn được khuyến cáo trong 3 tháng đầu, để đạt được hiệu quả điều trị đầy đủ. Sau 3 tháng, bệnh nhân được phép thử thụ thai tự nhiên trong 2 tháng, mà không ngừng điều trị trước khi tiếp tục ARV khi được chỉ định. Phụ nữ được khuyên nên tiếp tục điều trị và sử dụng 5-MTHF trong khi mang thai và cho con bú sau đó. Đàn ông được phép ngừng 5-MTHF khi xác nhận kết quả mang thai.

Phức hợp Vitamin B và kẽm đã được thêm vào phương pháp điều trị.


Kết quả đột biến đồng hợp tử MTHFR

  • Trong số bệnh nhân năm 2016 yêu cầu điều trị vô sinh. Chúng tôi đã quan sát tỉ lệ C677T cho đối tượng phụ nữ: WT 38%, HTZ: 45%, HMZ: 17%, mặc dù không đại diện cho toàn dân số nói chung, nhưng cũng rất gần với dữ liệu ở châu Âu.

(WT: Gen bình thường) (HTZ: đột biến dị hợp tử) (HMZ: đột biến đồng hợp tử)

  • Trong 30 bệnh nhân được điều trị tại đây, 18 phụ nữ là HMZ và 1 người HTZ. 6 đàn ông cũng được tìm thấy HMZ.
  • 13 ca mang thai tự nhiên đã được quan sát khi kết thúc điều trị. Và 1 ca khác sau khi làm điều trị ARV không thành công (tổng số 14/31=45%). 1 người phụ nữ bị sảy thai. 13 ca mang thai sau khi điều trị ARV (tỷ lệ 42%). Có ba cặp vợ chồng (tỷ lệ 10%) điều trị không thành công. Cho đến nay có tổng cộng 11 ca (3 trai, 8 gái) đã được ghi nhận.

Trong nhóm 14 bệnh nhân đã trải qua 61 lần sảy thai (4,36 mỗi bệnh nhân). Chúng tôi ghi nhận 4 lần sinh nở và 8 lần tiếp tục mang thai (> 3 tháng) tỷ lệ tiếp tục mang thai là 86,7%.

  • Một cặp vợ chồng bị không được theo dõi. Hai cặp vợ chồng hiện vẫn đang được điều trị.
  • 25 bệnh nhân đang bắt đầu một chương trình mới.

Ảnh: Danh sách các cặp vợ chồng tham gia nghiên cứu “Đột biến gen đồng hợp tử MTHFR”


4 điều lưu ý đột biến gen đồng hợp tử MTHFR

Chu kỳ folate & chu trình 1-CC

  • Các lựa chọn của chúng tôi cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa chu kỳ folate với chu trình 1-CC, và khả năng thụ thai và toàn bộ quá trình mang thai.
  • Điều trị bằng 5-MTHF cho sảy thai tái phát (RM) mang MTHFR SNPs C677T và A1298C đã cải thiện cơ hội mang thai cho đến khi sinh con. Nó cũng tránh sự gia tăng rủi ro liên quan đến UMFA.
  • Theo như phân tích. Rõ ràng là các đồng phân MTHFR đã hủy bỏ quá trình tạo giao tử và tạo phôi và được biểu hiện trong giai đoạn phôi tiền cấy ghép đầu tiên Các nhiễm sắc thể bất thường quan sát được có thể được kết luận trực tiếp vì các đồng phân MTHFR.

Quá trình methyl hóa

  • Quá trình methyl hóa DNA của mẹ cũng điều chỉnh sự phát triển mô thai nhi sớm và Sẩy thai cũng có thể được kết luận là do đồng phân MTHFR. Việc in dấu gen của hợp tử, quá trình methyl hóa, sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nhau thai. Ở nam giới, tác động tiêu cực có thể được giải thích bằng ảnh hưởng của quá trình methyl hóa DNA lên chức năng phát triển mô thai nói chung.
  • Một quá trình methyl hóa bị lỗi sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển hoàn toàn của mô thai và khả năng sinh lý của nó để duy trì sự cấy ghép. Và sau đó là sự phát triển của nhau thai và sự phát triển của thai nhi. Kết luận này trở nên rõ ràng khi kiểm tra 2 phụ nữ bị ảnh hưởng bởi sảy thai tái phát. Vì bộ gen của cha, bị thay đổi bởi SNPs, cũng đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp sảy thai.

5-MTHF

  • Vì 5-MTHF làm tăng lượng Folate trong huyết tương hiệu quả hơn axit folic, nên cung cấp thêm là một cách hợp lý để tránh các vấn đề ban đầu liên quan đến MTHFR về thụ thai và sảy thai. Ngược lại, vượt quá lượng axit folic tổng hợp sẽ dẫn đến hội chứng UMFA. Hội chứng UMFA làm tăng nguy cơ ung thư (đại trực tràng, tuyến tiền liệt, đối với ung thư vú mặc chưa được kết luận rõ ràng)
  • Acid folic liều cao có hiệu quả thấp trong việc giảm Homocysteine trong chu trình.Trong một nhóm bệnh nhân có Homocysteine tăng và mắc các bệnh lý về tim, axit folic đã được chứng minh là có tác dụng bất lợi khi so sánh với các giả dược. Homocysteine có tác dụng trái ngược vì nó ngăn chặn sự xâm nhập của axit folic trong chu trình axit folic thông qua ức chế DHFR (dihydrofolate reductase). Làm giảm khả năng chuyển hóa đã sẵn yếu của MTHFR ở những bệnh nhân này.

Homocysteine trong máu cao

  • UMFA cũng có thể gây ra hội chứng MTHFR giả thông qua cơ chế ức chế cơ chất. Gây ra sự đảo ngược của chu kỳ và dẫn đến tăng Homocysteine. Ngoài ra, UMFA cạnh tranh sự liên kết và vận chuyển 5-MTHF trong các tế bào, làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt.
  • Trong mọi trường hợp, bệnh nhân bị sảy thai tái phát cần được xét nghiệm hai đồng phân MTHFR chính. Việc kiểm tra các đồng phân MTHFR nên là bắt buộc trong tất cả các chương trình hiến tế bào trứng không chỉ cho các nhà tài trợ (nữ giới) mà còn cho cả đối tác nam.

Về việc xét nghiệm tại Việt Nam gen MTHFR có khá nhiều ý trái chiều về việc loại bỏ gen MTHFR ra khỏi nhóm Thrombophilia. Mời bạn đọc bài Xét nghiệm Thrombophilia có nên làm hay không trước khi quyết định đi làm xét nghiệm.

  • Các chất gây rối loạn nội tiết gây ảnh hưởng tiêu cực lên quy định về dấu ấn/biểu sinh/methyl hóa. Sàng lọc di truyền tiền cấy ghép (PGS) thường được đề xuất như một kỹ thuật để tiếp cận và khắc phục các tổn thất thai nhi chưa giải thích được.
  • Chúng tôi cơ bản chỉ ra rằng việc đánh giá sự hiện diện của đột biến MTHFR ở các cặp vợ chồng trước IVF. Chứ chưa đề cập đến kỹ thuật bổ trợ của PGS. Phương án điều trị bệnh nhân với 5-MTHF có thể tránh các thủ thuật điều trị ARV tốn kém và can thiệp không cần thiết.

Ảnh: Tên các nhà khoa học đang và tiếp tục tham gia dự án


Sản phẩm 5-MTHF tại Việt Nam.

  • Bạn đang cần tìm hiểu về sản phẩm có chứa 5-MTHF được phân phối bởi một công ty dược tại Việt Nam, không phải là những hàng xách tay không kiểm soát được chất lượng. Protake Care chính là sản phẩm mà bạn đang cần tìm. Sản phẩm được nhập khẩu tại MỸ. Sản xuất bởi tập đoàn dược ARNET(Thành lập 1972).

Protake Care – Protect Baby, Healthy mom.

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6086798/